Phật Giáo Ninh Thuận

http://phatgiaoninhthuan.com.vn


LƯỢC SỬ TỔ HẢI BÌNH - BẢO TẠNG (1818 - 1872)


Tổ sư Hải Bình húy thượng BẢO hạ TẠNG, Thế danh Huỳnh Văn Yết, sinh ngày 14 tháng 8 năm Mậu Dần (1818), là một vị cao tăng triều Nguyễn, thuộc thiền phái Lâm Tế Liễu Quán, đời pháp thứ 40. Ngài xuất thân từ Tổ Đình Long Sơn Bát Nhã (Phú Yên), là cao đệ của Tăng Cang Hòa Thượng Tánh Thông Giác Ngộ (1774-1842).
    Dưới mái chùa Bát Nhã, Ngài đã được Thầy trao truyền diệu pháp và cho tham phương học đạo với các vị đại sư đương thời. Noi gương công cuộc hoằng pháp của các bậc tổ sư, Ngài phát tâm vân du hóa đạo, từng dừng chân ở nhiều chùa thuộc các tỉnh Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Ở đâu ngài cũng dụng tâm kiến thiết, phục hưng, khai sơn lập lên những đạo tràng thật trang nghiêm và mong muốn chuyển tải những nét đẹp văn hóa giáo nghĩa Phật giáo cho bổn đạo phật tử nơi sở tại.
     Năm Nhâm Dần (1842), bổn sư Tánh Thông Giác Ngộ viên tịch tại chùa Bát Nhã. Sau đó, ngài cùng hai sư huynh là Thiền Sư Bảo Thanh và Bảo Chân vân du hoằng hóa về phương nam. Trong khi hai sư huynh Bảo Thanh và Bảo Chân vào hoằng hóa ở vùng Đồng Nai (Miền Đông Nam Bộ ngày nay), thì Tổ Bảo Tạng dừng chân tại làng Ma Nương (bây giờ thuộc thôn Đắc Nhơn, xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, Tỉnh Ninh Thuận), kế thế trụ trì Tổ Đình Thiền Lâm, và tái thiết đại trùng tu ngôi cổ tự này lần thứ nhất vào năm 1854. Hiện nay, tại Tổ đường Tổ đình Thiền Lâm, có lập long vị tôn thờ và tưởng nhớ ân đức của Ngài.
    Ngoài việc trùng tu Tổ Đình Thiền Lâm, Tổ còn khai sơn nhiều ngôi chùa khác ở Tam Phan (Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết) như: Chùa Linh Sơn, Chùa Phước Lâm, Chùa Trà Cang thuộc tỉnh Ninh Thuận; Chùa Linh Sơn, Chùa Cổ Thạch thuộc tỉnh Bình Thuận; và Chùa Bửu Long, Chùa Châu Viên, Chùa Ngọc Tuyền ở phía nam thuộc vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu...
    Tổ Bảo Tạng có đến Bào Trâm gần núi Kê Gà (Hàm Tân) hoằng dương phật pháp, Đại Sư Thông Ân khai sơn Chùa Kim Quang nghe danh tiếng của Tổ, nên đến đảnh lễ và thỉnh về Chùa, xin thọ giới cụ túc với Tổ, được ban pháp danh là Hữu Đức.
    Trong thời gian hoằng hóa ở Bào Trâm, Tổ Bảo Tạng tìm được đường ngầm vào núi Trà Cú và nhận thấy núi này là nơi “địa linh”, có nhiều long mạch hội tụ, Tổ ẩn tu trong hang núi Trà Cú, phía dưới hang có mạch nước trong mát, về sau gọi nơi đây là “hang Tổ”.
    Tổ Bảo Tạng khi đến hang này thì nơi đây là rừng sâu hoang vắng, là nơi hang ổ của các loài cọp sói. Tổ chọn một bàn thạch trong hang núi tọa thiền, khi đói chỉ dùng rau rừng qua ngày. Ngài tu như thế trải qua mấy năm dài, dần dần cọp sói trở thành bạn thân thiết với Ngài. Nhờ ý chí quyết tâm xả thân cầu đạo, Ngài đắc đạo nơi đây. Sau đó, do những người đi rừng phát giác được chỗ Ngài tu, họ về báo tin cho nhau hay, rồi rủ nhau lên núi đảnh lễ Ngài và chặt cây bện tranh tạo dựng cho Ngài một chiếc thảo am để tu. Ở trong am, mỗi tối Ngài tọa thiền, hay tụng kinh đều có hai con cọp hầu bên cạnh. Chiếc am tranh này về sau trở thành chùa Tổ, hai con cọp sau khi chết, được các sư trong chùa cất ngôi miếu nhỏ thờ bên cạnh chùa, gọi là miếu Ông Hổ.
    Sau đó Tổ Bảo Tạng rời am, ven theo đường biển đi về phía nam, để đệ tử là Hữu Đức ở lại am tu hành, sau này Đại Sư Hữu Đức dựng chùa Linh Sơn Trường Thọ ở phía dưới thấp trước hang Tổ để hoằng hóa.
    Tổ Bảo Tạng đến núi Châu Viên ở Phước Hải, huyện Long Đất, Bà Rịa - Vũng Tàu, lập chùa Châu Viên Sơn Tự, và chùa Ngọc Tuyền trên núi Kỳ Vân. Tổ còn trùng tu và khai sáng nhiều chùa khác ở vùng Bà Rịa như: chùa Long An, chùa Bửu An, chùa Long Hưng...
    Năm Mậu Ngọ (1858) Tổ Bảo Tạng ở núi Châu Viên in lại sách Kim Cang Chú Giải (chữ hán), được sự chứng minh của sư huynh là Hòa thượng Bảo Thanh ở núi Chứa Chan. Sách này do Tôn giả Qui Pháp chú giải và Tôn giả Qui Phật tập chú.
    Sau đó, Tổ Bảo Tạng trở về trụ trì chùa Thạch Sơn, Phú Yên. Triều đại Tự Đức Năm tân dậu (1861) lại viết chữ khắc lên bản gỗ, để in sách Kim Cương Tâm Kinh Diễn Nghĩa.
    Năm Mậu Thìn (1868) Đại sư Hoằng Ân chùa Long Quang đứng ra tổ chức giới đàn, cung thỉnh Ngài làm Hòa thượng Đàn đầu truyền giới tại giới đàn chùa Long Quang (Phú Yên). Sau đó, ngài lại vân du vào nam trụ trì chùa Long Hòa, chùa Ngọc Tuyền.
Ngày 25 tháng 5 Năm Nhâm Thân (1872), ngài thâu thần thị tịch, đồ chúng lập tháp phụng thờ tại chùa Ngọc Tuyền (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Trên bia có ghi:
    “ Từ Lâm Tế chánh tông, tứ thập thế, húy HẢI BÌNH,
thượng BẢO hạ TẠNG Hòa Thượng Giác Linh ”.
    Ngài có công đức lớn trong việc hoằng dương đạo pháp, đem Phật giáo vào miền đông nam bộ, khai tạo nhiều cơ sở tự viện làm nền móng cho sự hình thành, phát triển Phật giáo tại các tỉnh miền trung và miền đông nam bộ
    Cuộc đời và công hạnh tu hành hoằng hóa của Tổ sư Bảo Tạng, muôn đời để lại cho hậu thế một tấm gương trong sáng soi chung.
 

Tác giả bài viết: Ban TTTT tỉnh Ninh Thuận

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây